Tổng quy mô nợ công trên GDP của Việt Nam cuối năm 2014 ở mức trên 60%, cao nhất so với các nước đang phát triển trong khu vực.



Theo Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), cách tính nợ công của Việt Nam chưa đồng bộ với chuẩn mực thế giới nên có sự khác biệt đáng kể giữa số liệu công bố của Chính phủ và tính toán của các tổ chức độc lập. Nợ Chính phủ bảo lãnh tăng và tăng áp lực trả nợ ngân sách nhà nước.



Nhiều khác biệt về số liệu nợ công



Dẫn chứng cụ thể, VEPR cho hay, theo số liệu chính thức từ Bộ Tài chính, tỉ lệ nợ công tăng từ 51,7% năm 2010 lên 53,3% GDP năm 2013 sau khi đã giảm còn khoảng 50% trong giai đoạn 2011-2012. Tỉ lệ nợ công được ước tăng lên khoảng 60,3% tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2014 và khoảng 64% GDP năm 2015. Tỉ lệ này đã tăng nhẹ so với con số ước tính trước đó là 59,6% GDP trong Báo cáo về sử dụng vốn vay và quản lý nợ công của Bộ Tài chính trước Quốc hội ngày 18/5/2015.









Một tính toán của Ngân hàng Thế giới (WB, 2015) cho thấy tỉ lệ nợ công của Việt Nam năm 2014 vào khoảng 59,6% GDP, thấp hơn ước tính chính thức. Số liệu của The Economist (2015) lại cho thấy tỉ lệ nợ công có xu hướng giảm dần cho dù số nợ tuyệt đối tăng. Trong một nghiên cứu của Học viện Chính sách và Phát triển, các tác giả chỉ ra số liệu được tính theo Luật Quản lý nợ công có phạm vi hẹp hơn so với các tổ chức quốc tế. Cách tính nợ công đề xuất bởi nghiên cứu trên, trong đó bao gồm các khoản nợ mà ngân sách buộc phải chi trả, cho thấy nợ công năm 2014 ở mức 65,2% GDP.



Xét về tổng quy mô nợ công trên GDP, tỷ lệ của Việt Nam cuối năm 2014 ở mức trên 60%, cao nhất trong so sánh với các nước đang phát triển trong khu vực (gồm Trung Quốc, Malaysia, Thái Lan, Philippines, Indonesia).







Áp lực trả nợ từ ngân sách quốc gia



Theo VEPR, nợ Chính phủ chiếm tỉ lệ tương đối ổn định khoảng 79% tổng nợ công trong giai đoạn 2010-2013. Tỉ lệ này có xu hướng tăng nhẹ, nguyên nhân một phần do Chính phủ hạn chế cấp bảo lãnh cho các khoản vay kể từ 2013 với Quyết định 689/QĐ-TTg. Chính phủ muốn giảm gánh nặng nợ sau nhiều năm tăng nhanh nhưng không được sử dụng đúng mục đích. Mặc dù vậy, nợ Chính phủ bảo lãnh cũng tăng đáng kể từ 226 nghìn tỉ đồng năm 2010 lên 452 nghìn tỉ đồng năm 2014. Lưu ý là không chỉ dành để đáp ứng vốn cho các dự án và công trình trọng điểm quốc gia, một lượng không nhỏ nợ Chính phủ bảo lãnh được cho là để phục vụ mục đích “tái cơ cấu các khoản nợ trong nước và nợ nước ngoài của các tập đoàn, tổng công ty và bảo lãnh phát hành của các ngân hàng chính sách”.



Một ví dụ là năm 2013, Chính phủ đã bảo lãnh phát hành trái phiếu của DATC để tái cấu trúc khoản vay 600 triệu USD của Vinashin. Điều này có thể đã tiếp diễn trong năm 2014.



Cũng theo VEPR, tỉ trọng nợ trong nước có xu hướng tăng lên từ mức 44,4% năm 2010 lên 54,5% năm 2014. Do nợ trong nước chiếm tỷ trọng lớn,rủi ro khủng hoảng nợ công ở Việt Nam chưa đến mức nguy hiểm dù tỷ lệ nợ công/GDP đã ở mức khá cao. Mặc dù vậy, nợ công nội địa cũng gây những tác động tiêu cực nhất định đến nền kinh tế như làm tăng lãi suất và thu hẹp nguồn vốn dành cho khu vực tư nhân và gây áp lực lạm phát.



Theo phân tích của VEPR, số nợ gốc phải trả là 62.600 tỉ đồng, chi từ ngân sách để trả nợ gốc là 62.500 tỉ đồng trong năm 2010. Tới năm 2013, tổng nợ gốc phải trả tăng lên gấp đôi (125.800 tỉ) trong khi chi ngân sách để trả nợ gốc đạt 55.600 tỉ đồng, khối lượng nợ gốc phải đảo nợ là 70.200 tỷ. Quy mô đảo nợ tiếp tục tăng lên mức 77.000 tỷ đồng trong năm 2014.



Bên cạnh đó, chi trả lãi cũng chiếm một tỉ lệ lớn trong thu chi ngân sách. So với tổng chi, chi trả lãi chiếm một tỉ lệ ngày càng lớn, từ 3,2% năm 2010 tăng lên 6,7% năm 2014. Xét về số tuyệt đối thì chi trả lãi năm 2014 tăng gấp 2,6 lần so với năm 2010.



Chi trả lãi chỉ thấp hơn chi cho giáo dục đào tạo (chiếm 17,3%), lương hưu và an sinh xã hội (10,8%) và quản lý hành chính (9,7%) và lấn át các khoản chi thường xuyên khác. Tỉ lệ thu ngân sách dành để trả lãi, thường xuyên ở mức cao, ước tính lên đến 9,2% cho năm 2015.



Cần giải pháp cứng rắn



Theo đánh giá của VEPR, “ngân sách trả nợ lãi đang làm xói mòn nguồn vốn cho đầu tư phát triển là một hậu quả trực tiếp của tỉ lệ nợ công cao”.



Từ thực tế này, VEPR cho rằng, tác động tiêu cực của nợ công cần được hiểu về bản chất như là rủi ro tích lũy của chính sách tài khóa lỏng lẻo và chi tiêu đầu tư công thiếu hiệu quả. Mức trần nợ công cần được xem xét dưới giác độ một ràng buộc cứng để cải thiện hiệu quả của chính sách tài khóa, bên cạnh ý nghĩa là ngưỡng an toàn để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng nợ công có thể xảy ra trong tương lai.



Vì lý do đó, VEPR khuyến nghị: “việc duy trì mức trần nợ công cố định có ý nghĩa thiết yếu trong kiểm soát các rủi ro vĩ mô trong trung hạn. Thay vì nới rộng trần nợ công, cần thực hiện các biện pháp cứng rắn để đưa và duy trì nợ công ở ngưỡng cho phép”./.



Xuân Thân










Theo stockbiz.vn